Chồng Tự ý bán đất khi không được vợ đồng ý được không?

Xin chào, công ty Luật Trần Vũ VINALAW!

Tôi tên là Trần Tuấn A,năm nay 40 tuổi, tôi và vợ đang làm thủ tục ly hôn hiện vợ tôi cùng con trai út của tôi đã ra nước ngoài sinh sống, còn tôi và con gái ở lại. Trong thời gian chung sống tôi với vợ có cùng nhau mua 2 mảnh đất, trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ đứng tên tôi. Nay do nhu cầu mở rộng việc sản xuất kinh doanh cần thêm vốn nên tôi muốn bán hai mảnh đất ấy đi. Xin hỏi luật sư tôi có quyền bán mảnh đất mà không cần hỏi ý kiến của vợ không? Mong nhận được sự tư vấn từ luật sư!

Xin cảm ơn!

Trả lời:

Điều đầu tiên công ty Luật Trần Vũ VINALAW và Cộng Sự xin gửi tới bạn lời chúc sức khỏe và lời cảm ơn sâu sắc vì đã tin tưởng sử dụng dịch vụ của chúng tôi. Sau khi nghiên cứu những thông tin mà bạn cung cấp. Phòng tư vấn qua tổng đài xin được phép tư vấn như sau.

Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

Điều 35. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung

1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.
2. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:
a) Bất động sản;
b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;
c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.

Như anh đã trình bày trong thời kỳ hôn nhân có nhận chuyển nhượng 2 mảnh đất nhưng chỉ một mình anh đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tuy nhiên trên thực tế mảnh đất ấy vẫn được coi là tài sản chung của hai vợ chồng vì nó có được trong thời kì hôn nhân. Việc anh và vợ của mình đã nộp đơn xin ly hôn ra Toà án nhưng vợ đi nước ngoài nên việc ly hôn vẫn chưa được giải quyết. Như vậy hiện nay anh và vợ chưa được Toà án công nhận hoặc quyết định cho ly hôn, chấm dứt quan hệ hôn nhân nên theo quy định của pháp luật anh chị vẫn đang là vợ chồng hợp pháp.

Theo quy định tại Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình, khi quan hệ hôn nhân đang tồn tại, vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận.

Trường hợp anh muốn chuyển nhượng quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng để lấy vốn đầu tư sản xuất kinh doanh thì phải bàn bạc, thỏa thuận và được sự đồng ý, chấp thuận của vợ. Cả hai anh chị cùng phải đứng tên bên chuyển nhượng trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ký kết hợp đồng với bên nhận chuyển nhượng tại một tổ chức công chứng nơi có đất và thực hiện thủ tục đăng ký biến động, sang tên đổi chủ theo quy định chung.

Trên đây là nội dung tư vấn của công ty luật Trần Vũ VINA LAW về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn. nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ đến địa chỉ email: tranvuvinalaw@gmail.com hoặc gọi điện đến Tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí trực tuyến 24/7 : 037.618.9559  để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

Trả lời